Sơ lược về bảy màu endler
Nguồn gốc
Bảy màu endler thực sự được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1937 bởi
Franklin Bond nhưng chìm vào quên lãng. Mãi đến năm 1975, giáo sư John
A. Endler tái phát hiện loài này (mà ông gọi là Poecilia sp.) tại
hồ Los Patos ở vùng đông bắc Venezuela. Chúng sống lẫn lộn cùng với
loài bảy màu thường trong vùng nước ấm (27 độ C) và cứng có lẫn nhiều
tảo, một trong số những nguồn thức ăn của chúng. Tiến sĩ Endler bắt một
số con và gửi cho tiến sĩ Donn Eric Rosen, trưởng khoa ngư loại học tại
Bảo tàng tự nhiên Hoa Kỳ. Tiến sĩ Rosen lại gửi một số con cho người bạn
của tiến sĩ Endler ở Thủy cung New York, tiến sĩ Klaus Kallman, một nhà
di truyền học nổi tiếng. Chính tiến sĩ Kallman là người giới thiệu loài
bảy màu này ra cộng đồng cá cảnh Đức.
Khi giới thiệu cá ra bên ngoài, tiến sĩ Kallman gọi chúng là loài bảy
màu endler và cái tên trở nên thông dụng từ đó. Từ cộng đồng cá cảnh
Đức, loài cá lan rộng khắp châu Âu và tiến sĩ Endler không nghe gì về
chúng mãi cho đến những năm 1980 khi một đồng nghiệp người Anh hỏi ông
về loài “bảy màu endler”. Sau đó, loài cá này lan qua Mỹ, Nhật và những
nước khác.
Bảy màu endler dù khá giống với dạng hoang dã của bảy màu thường (Poecilia reticulata)
nhưng là một loài hoàn toàn khác biệt. Sau nhiều năm lưu hành trên thị
trường cá cảnh, vào cuối năm 2005, các nhà khoa học đã nghiên cứu và đặt
cho chúng một tên mới là Poecilia wingei. Cá bảy màu endler là
họ hàng gần và có thể lai tạp với cá bảy mà thường nên cần nuôi riêng để
bảo tồn loài thuần chủng. Trên thực tế, nhiều nhóm chơi cá bảy màu ở
châu Âu và Mỹ đã lai tạp hai loài này với nhau tạo ra đủ loại biến thể
lai, tuy nhiên, cá lai bị vô sinh.
Phân biệt bảy màu endler với bảy màu thường bằng cách quan sát các vây.
Nếu vây lưng và vây hậu môn khi giương lên có góc nhọn như thế này /\
thì đó chính là bảy màu endler.
Tiến sĩ Endler lưu ý rằng có rất ít kiểu hình riêng biệt ngoài tự nhiên
của loài bảy màu endler thâm nhập vào thế giới cá cảnh. Mỗi địa điểm ở
hồ Los Patos đều có những nhóm cá bảy màu endler với kiểu hình riêng
biệt. Sau này, người ta còn phát hiện thêm nhóm cá thể ở một hồ nhỏ gần
đó, hồ Malaguena.
Sự phát triển đô thị đang tác động đến loài này bởi vì bãi rác thải của
thành phố được xây dựng gần hồ. Rất nhiều chất thải hữu cơ và hóa học rò
rỉ vào hồ khiến cho hệ thống cân bằng sinh thái được đặt trong tình
trạng nguy hiểm.
Biến thể
Như đã lưu ý ở trên rằng mỗi địa điểm ở hồ Los Patos đều có những nhóm
cá bảy màu endler với kiểu hình riêng biệt. Armando Pou đã sưu tầm một
số biến thể endler hoang dã trong thời gian từ năm 1997 đến 2004. Sau
đó, Adrian HD (swampriveraquatics.com) lai tuyển chọn các đặc điểm riêng
biệt của chúng để tạo ra rất nhiều dòng cá bảy màu ender như dưới đây:
Nuôi dưỡng
Bảy màu endler là loài dễ nuôi, cách nuôi hoàn toàn tương tự với bảy màu
thường. Loài cá này rất năng động và dễ thương, chúng không đòi hỏi quá
nhiều không gian để bơi lội. Cả đàn hầu như bơi theo cùng một hướng rồi
lại đồng loạt đổi hướng khác. Dòng nước không ảnh hưởng gì đến chúng,
thậm chí có con còn thích vùng vẫy trong dòng nước mạnh, nhưng cần có
chỗ để nghỉ ngơi. Endler ngủ rất say: hầu hết đều chìm xuống đáy nhưng
cũng có vài con nổi, trông chúng như đã chết. Chúng thích tụ tập thành
đàn nhưng hoàn toàn có thể nuôi riêng rẽ. Xung đột chỉ thể hiện khi tỷ
lệ cá đực cao hơn cá cái, và xảy ra cạnh tranh sinh sản. Endler vẫn chấp
nhận các loại thức ăn tổng hợp nhưng thích thức ăn tươi sống và đông
lạnh hơn. Trùn kim (grindal worm) là loại thức ăn lý tưởng đối với loại
cá có kích thước như thế này. Chúng cũng ăn cả tảo spirulina nhưng không
nhiều. Trồng cây thủy sinh Java moss trong hồ nuôi endler rất thích
hợp. Chúng tạo ra nơi trú ẩn cho cá con và cung cấp nguồn vi sinh cho cá
bột. Cá thích nước thật cứng hay hơi trung hòa và tầm nhiệt độ rộng.
Khi ngủ, chúng cần bóng tối hoàn toàn vì nếu để đèn, cá sẽ đờ đẫn và đổ
bệnh vì ngủ không đủ (ít nhất 6 tiếng). Cá endler sống đến 2 tuổi nếu
được chăm sóc tốt.
Lưu ý không nên để khe hở khi đậy nắp hồ nuôi vì endler nhảy rất dữ.
Endler cũng rất hiếu sáng. Nếu thấy chúng bơi nghiêng, hãy kiểm tra
nguồn sáng. Ánh sáng chiếu qua cửa số có thể khiến chúng bơi chúc xuống
gần 90 độ.
Lai tạo
Lai tạo bảy màu endler thực sự là công việc rất bận rộn. Chúng sinh sản
như máy chừng nào mà cá đực và cá cái còn thả chung với nhau, và chúng
thường không ăn con. Nếu lai lẫn lộn nhiều biến thể thì sẽ thu được vô
số kiểu hình, từ dạng đuôi đơn kiếm, song kiếm, đuôi đàn lyre đến đủ
loại màu sắc khác nhau, kể cả những màu lạ như cam (trên 50% diện tích
thân màu cam) và ánh kim. Lai tuyển chọn qua nhiều thế hệ có thể tạo ra
được dòng thuần với kiểu hình đặc trưng. Số lượng cá mỗi lứa đẻ tăng dần
theo độ tuổi cá cái, có thể lên đến 40 con một lứa khi hoàn toàn trưởng
thành. Cá cái trưởng thành đẻ vài lứa một tháng vì vậy bạn sẽ có rất
nhiều lứa cá phải chăm sóc. Cá bột ăn đủ loại thức ăn từ các vi sinh vật
lẫn trong cây thủy sinh cho đến ấu trùng artemia, bo bo và các loại
thức ăn tổng hợp dành riêng cho chúng. Nhiều con đủ lớn để ăn trùn kim
(grindal worm) ngay khi vừa ra đời. Sau vài tuần, chúng có thể ăn được
thức ăn tổng hợp dạng tấm nhưng nên tiếp tục cho ăn dặm thức ăn tươi
sống. Khi mới sanh, cá endler con có bụng căng tròn vì chứa đầy noãn
hoàng. Sau từ 6-8 giờ, chúng tiêu thụ hết noãn hoàng và bắt đầu bơi tự
do. Cá cha mẹ sẽ ăn cá con, nhưng chúng đủ nhanh và to để trốn thoát. Tỷ
lệ sống sót thường từ 75-100%. Nhiệt độ ấm áp khiến cá tăng trưởng
nhanh. Cá đực lên màu sau từ 3-5 tuần, cá cái trông hầu như không đổi.
Các đốm đen xuất hiện trước và những màu khác phát triển sau ở vùng xung
quanh.
Hồ ươm endler.
Tham khảo
http://eric.petfish.net/endlers.htm
http://members.cox.net/newcomb1/endlers.html
http://www.endlersr.us/
http://www.aquariumhobbyist.com/endlerslivebearer/
Chào mừng đến với Guppy Bình Thạnh Group